Sự can thiệp của các cường quốc châu Âu Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp

Trận hải chiến Navarino--Tiêu hủy hạm đội Thổ-Ai Cập

Tới năm 1827, Cách mạng Hy Lạp đứng bên bờ diệt vong, dù rằng người Hy Lạp vẫn ngạo nghễ không chịu khuất phục quân Thổ Nhĩ Kỳ và còn thách thức bằng cách tuyên bố thành lập quốc gia Hy Lạp. Chiến tranh kéo dài nhiều năm, nội chiến làm hao mòn sức lực, ngân quỹ phá sản. Quân Thổ tiếp tục chiếm đóng những pháo đài quan trọng trong những vùng đất nhỏ bé mà người Hy Lạp giải phóng được. Nguy hại hơn là từ khi quân Ai Cập tham chiến, quân Hy Lạp không chống lại được sức mạnh tổng hợp của lực lượng Thổ - Ai Cập cả trên biển lẫn trên đất liền. Dù rằng quân Hy Lạp với lối đánh du kích đã giáng vào quân Ai Cập nhiều đòn đau, thì quân Ai Cập cũng chiếm được nhiều vị trí xung yếu và tàn phá nặng nề miền nam Hy Lạp, gây ra nguy cơ xảy ra nạn đói. Để trả thù, quân Ai Cập tàn sát dã man người Hy Lạp và bắt đi rất nhiều người khác đem bán làm nô lệ ở Ai Cập.

Chính sách và quyền lợi của các cường quốc châu Âu mâu thuẫn, đối nghịch lại nhau, nên họ không thể thống nhất được việc phải giải quyết cuộc khủng hoảng này như thế nào. Nga vốn vẫn ủng hộ Hy Lạp vì cùng chung Chính thống giáo và cùng coi Thổ là kẻ thù, nhưng Anh và Áo lại ủng hộ Thổ để ngăn cản sự bành trướng của Nga, Pháp thì chỉ tìm cách phá hoại Anh vì những mâu thuẫn lâu đời giữa hai nước. Cho tới tận năm 1826, khi Sa hoàng Nikolai I, mới lên ngôi và là người nhiệt thành ủng hộ Hy Lạp, tuyên bố nếu cần thiết, Nga sẽ đơn phương hành động để giúp Hy Lạp, đồng thời dư luận Anh và châu Âu cũng đang hết sức phẫn nộ vì những tội ác ghê gớm mà quân Ai Cập gây ra cho dân thường Hy Lạp, thì Chính phủ Anh mới thấy rằng sự can thiệp vào Hy Lạp là không thể tránh khỏi. Do vậy giải pháp tốt nhất là Anh cũng tham gia, để tránh thiệt hại cho quyền lợi của Anh. Liên minh ba cường quốc châu Âu Anh Pháp Nga ký hiệp định London tháng 6 năm 1827, cam kết buộc Thổ phải ngưng các hoạt động quân sự ở Hy Lạp và trao cho Hy Lạp quyền tự trị.

Trận Navarino, tranh của Ivan Aivazovsky, chiến hạm Nga cờ trắng đang bắn phá hạm đội Thổ cờ đỏ

Hạm đội đồng minh được phái đến Hy Lạp để áp đặt các điều khoản hiệp định lên Hy Lạp và Đế quốc Ottoman. Chỉ huy hạm đội Anh là Phó đô đốc, Huân tước Edward Codrington nhận được lệnh chỉ sử dụng vũ lực trong trường hợp bất khả kháng, nhưng các chính phủ Nga, Pháp và Anh đều ngầm hiểu việc thi hành bản hiệp định trên thực tế là làm lợi cho phía Hy Lạp. Do phía Hy Lạp nhanh chóng chấp thuận bản hiệp ước, và phía Ottoman bác bỏ, nên lực lượng đồng minh áp đặt hiệp ước, tức áp đặt ngưng bắn lên phía quân Thổ.

Lực lượng hải quân Thổ-Ai Cập bao gồm 78 thuyền chiến với 2.180 pháo, lực lượng đồng minh có 22 thuyền chiến và 1.258 pháo, nhưng có tới 10 thuyền của quân đồng minh là chiến hạm hạng lớn, so với 3 chiến hạm của quân Thổ. Hải pháo của quân đồng minh cũng lớn hơn, thủy thủ giỏi hơn, và dù rằng quân Thổ có nhiều thuyền chiến nhỏ hơn, thì thực tế lịch sử cũng chỉ ra rằng các thuyền chiến nhỏ, bao gồm khu trục hạm, tàu hộ tống và thuyền hai buồm hoàn toàn bất lực trong các cuộc chạm trán với chiến hạm. Hải quân Ai Cập chuyên nghiệp hơn hải quân Thổ, nhưng một số đáng kể thủy thủ đoàn là người Pháp được thuê để phục vụ trong hạm đội Ai Cập, nên những người này không có tinh thần chiến đấu để chống lại đồng bào của mình ở phía bên kia.

Tập tin-Trận chiến Navarino 1827.REQUIEM. phần 1. Vladimir Kosov 120x100 HM 2021

Ngày 20 tháng 10 năm 1827, khi các chiến hạm của quân đồng minh tiến vào cảng Navarino thì xung đột nổ ra giữa một tàu Anh và một tàu Thổ. Quân Pháp nổ súng để hỗ trợ quân Anh, rồi đến lượt một tàu Thổ nã pháo vào tàu Pháp. Ngay tức khắc, tất cả các tàu đều nổ súng, trận hải chiến bùng nổ. Vì khoảng cách giữa các tàu quá gần nên các tàu chủ yếu đứng yên tại chỗ và nã pháo vào tàu đối phương. Với cách giao chiến như vậy, hỏa lực và tài tác xạ đóng vai trò quyết định, ví dụ như kỳ hạm Asia của Đô đốc Codrington bỏ neu ở giữa hai tàu Thổ bắn vào cả hai tàu này cùng một lúc và tiêu hủy cả hai tàu này. Chiến tích này tiếp tục diễn ra trên toàn tuyến giao tranh của hạm đội đồng minh. Sau chừng 4 giờ giao chiến, hạm đội Thổ-Ai Cập hoàn toàn bị tiêu diệt, ba phần tư bị đánh đắm hoặc bị thủy thủ đoàn tự đốt cháy hay đánh chìm để khỏi rơi vào tay đối phương. Chừng 3000 quân Thổ-Ai Cập bị chết, 1109 bị thương, chỉ còn 8 tàu còn khả dĩ đi biển được, phía quân đồng minh chỉ có 181 người chết, 480 bị thương và vài chiến hạm bị hư hại nặng. Nghịch lý là Đô đốc Codrington suýt nữa thì tiêu tan sự nghiệp, vì ông vốn không được lệnh đánh thắng một trận lớn như vậy, hoặc là không được hủy diệt hoàn toàn hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ.

Tượng Demetrius Ypsilanti tại Tháp nước Ypsilanti

Khi tin tức về trận hải chiến truyền về đất liền, người Hy Lạp phát cuồng lên vì vui sướng. Khắp nơi người ta đánh chuông nhà thờ và tụ tập suốt đêm bắn pháo bông ăn mừng. Trên các đỉnh núi cao nhất ở Peloponnese và trên núi Parnassos ở miền trung Hy Lạp, người ta đốt lên những ngọn lửa lớn, còn Giáo trưởng Athena ra lệnh đánh chuông suốt ba ngày đêm trên toàn Hy Lạp để mừng hạm đội của Đế quốc Ottoman và nước chư hầu Ai Cập không còn tồn tại nữa. Điều đáng ngạc nhiên là khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, Anh-Pháp-Nga và sau đó là Hy Lạp lại tái hợp với nhau tạo nên phe Hiệp ước nhằm chống lại Liên minh Trung tâm của chính Đức, Áo-Hung và chính Thổ Nhĩ Kỳ.

Tháng 10 năm 1828, quân Hy Lạp tái tập hợp và thành lập chính phủ mới dưới sự lãnh đạo của John Capodistria (Καποδíστριας). Tiếp đó họ tiến quân nhằm giành lấy càng nhiều lãnh thổ càng tốt, bao gồm cả AthenaThebes, trước khi các cường quốc châu Âu áp đặt lệnh ngưng chiến. Quân Hy Lạp chiếm được những pháo đài cuối cùng vẫn còn nằm trong tay quân Thổ trên bán đảo Peloponnese nhờ có sự giúp sức của viên tướng Pháp tên là Nicolas Joseph Maison.

Cuộc giao tranh lớn cuối cùng của cuộc chiến là trận Petra, diễn ra ở vùng bắc Attica. Quân Hy Lạp dưới quyền Dimitrios Ypsilantis, lần đầu tiên được huấn luyện để chiến đấu như một đạo quân chính quy châu Âu hơn là những toán quân du kích, tiến công quân Thổ vì các chỉ huy Hy Lạp hiểu rằng tất cả những vùng lãnh thổ được giải phóng sẽ thuộc về Hy Lạp khi ngưng chiến có hiệu lực. Quân Hy Lạp chạm trán với quân Thổ của Osman Pasha rồi sau một loạt súng nổ, quân Hy Lạp xung trận với gươm tuốt trần và đánh cho quân Thổ đại bại. Quân Thổ chấp nhận từ bỏ tất cả những vùng đất từ Livadeia cho tới sông Spercheios để đổi lại việc quân Hy Lạp đảm bảo mở đường rút lui an toàn cho tàn quân Thổ rút khỏi miền trung Hy Lạp. Sự kiện này đánh dấu lần đầu tiên, quân Hy Lạp và quân Thổ đàm phán trên chiến trường. Trận Petra là trận chiến cuối cùng của Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp. Điều mỉa mai là Dimitrios Ypsilantis chính là người kết thúc cuộc chiến mà anh trai mình khởi phát tám năm rưỡi trước khi ông vượt sông Prut, bắt đầu cuộc khởi nghĩa.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp http://www.ahistoryofgreece.com/revolution.htm http://www.lib.msu.edu/sowards/balkan/ http://www.anistor.co.hol.gr/english/enback/e972.h... http://www.myriobiblos.gr/texts/english/makriyanni... http://www.snhell.gr/testimonies/writer.asp?id=102 http://www.heraldica.org/topics/royalty/greece.htm... https://archive.org/details/historygreekrev00gordg... https://archive.org/details/thatgreecemights0000st... https://web.archive.org/web/20030811113102/http://... https://web.archive.org/web/20070202182659/http://...